Có nên cúng sao giải hạn hay không?
- Hồng Ngọc
- Đăng lúc: Thứ năm, 11/02/2021 18:29 (GMT +7)
Đầu xuân đi lễ chùa để cầu cho quốc thái, dân an từ lâu đã trở thành tín ngưỡng của người dân Việt Nam, trong đó có lễ dâng sao giải hạn.
Lễ dâng sao giải hạn được coi là thủ tục quan trọng đối với các thành viên trong gia đình khi một năm mới bắt đầu. Phong tục này đã tồn tại từ rất lâu đời và in sâu vào trong tâm thức của hầu hết người dân Việt Nam.
Tục cúng sao giải hạn
Tiến sĩ Nguyễn Văn Vịnh - Chuyên gia phong thủy, Trưởng khoa Khoa học cơ bản, Trường Đại học Mỹ thuật Công nghiệp Hà Nội - đã có những chia sẻ về việc cúng sao giải hạn đầu năm. Ông cho biết, nguồn gốc của tục dâng sao giải hạn có từ rất lâu đời và cho đến thời điểm hiện tại chúng ta vẫn gán cho Phật giáo nhưng trên thực tế, tục này bắt nguồn từ Đạo giáo.
Đạo giáo cũng được hiểu là một đạo thần tiên, tu luyện, chọn ngày tốt. Nhưng vì phong tục đã tồn tại lâu đời trong xã hội Việt Nam nên hiện nay các nhà chùa vào dịp lễ Tết cũng làm lễ dâng sao giải hạn. Sở dĩ nhà Phật nhận cái thuật này bởi nó đã trở thành tục lệ trong dân gian Việt Nam nhằm mục đích thâm nhập sâu hơn, xã hội hóa và đi vào lòng của xã hội. Còn gốc tích của Phật giáo không hề có các sao này.
Các sao chiếu mệnh gồm có sao Thái Dương, Thái Âm, Thổ Tú, Thái Bạch, Mộc Đức, Vân Hớn, La Hầu, Thủy Diệu và Kế Đô. Với 9 chòm sao này sẽ có sao tốt, sao xấu. Năm nào bị sao xấu chiếu thì người đó sẽ gặp phải chuyện không may như ốm đau, bệnh tật… Người ta gọi đó là vận hạn, nặng nhất là "Nam La Hầu, nữ Kế Đô". Còn năm đó được sao tốt chiếu mệnh sẽ làm lễ dâng sao nghênh đón.
Trong cúng dâng sao, người ta chỉ mặc định rằng năm nữ có cách tính khác nhau, vận hành ngược, vận hành thuận của chu trình. Như vậy, việc ấn định cứ đến năm này thì sao này xấu là hoàn toàn không phải. Bởi bản thân cách quy tuổi của dân gian suy rộng ra đều quy về ngũ hành.
Nói đúng ra, mỗi một sao sẽ phụ trách một giai đoạn nhất định trong tháng nên chúng đều được định cho một ngày cúng. Tiến sĩ Vịnh cho biết: "Nếu như chúng ta cho rằng việc cúng dâng sao mà có thể giải được hạn thì đó là quan điểm sai lầm. Nhưng vì từ lâu nó đã trở thành một thói quen văn hóa nên thực tế phần nào chỉ giải quyết được một mặt về tâm lí. Còn để giải quyết triệt để đến đâu thì phải thắng thắn nói rằng: Không giải quyết được gì!".
Tuy nhiên, xuất phát từ mong muốn giảm nhẹ vận hạn, người xưa thường làm lễ cúng vào đầu năm hoặc hàng tháng tại chùa hay tại nhà ở ngoài trời. Lễ cúng này nhằm mục đích xin Thần Sao phù hộ cho bản thân, con cháu, gia đình khỏe mạnh, bình ăn, may mắn và thành đạt. Nhiều chùa ở Việt Nam còn tổ chức đăng lý làm lễ từ tháng 11 – 12 âm lịch của năm trước. Ngày nay cúng sao giải hạn đa số là diễn ra ở các chùa, người đứng ra tổ chức cúng sao giải hạn là quý thầy.
Ý nghĩa các sao và cách cúng sao giải hạn tại nhà
Sao Thái Âm: Là một sao tốt, nam gặp sao này thì làm việc gì cũng được toại nguyện dù là cầu tài hay danh vọng nhưng nữ hay bị đau ốm chút ít. Sao này chiếu vào tháng 9 là tháng phát và tháng 11 thì kỵ. Để trừ điều xấu, thu điều tốt, mỗi tháng vào tối ngày 26 cúng 7 ngọn đèn, 7 chén nước, 3 nén hương. Bài vị dùng giấy vàng viết: "Nguyệt cung Thái Âm Hoàng Hậu tinh quân" và quay về hướng Tây hành lễ.
Sao Thổ Tú: Là một hung tinh, khi sao này chiếu đi đâu cũng không thuận lợi ý, cần đề phòng tiểu nhân ngăn trở, gia đạo bất an, hay mông mị chiêm bao. Sao Thổ Tú chiếu vào tháng 4 và tháng 8, kỵ hay có việc buồn. Cả nam và nữ đều như thế. Để giải hạn, mỗi tháng vào tối ngày 19 cúng 5 ngọn đèn, 5 chén nước và 3 nén hương, dùng giấy vàng viết bài vị: "Trung ương Mậu Kỷ Thổ Đức tinh quân" và quay về hướng Bắc hành lễ.
Sao Thái Dương: Sao có cát có hung, nam làm ăn sáng suốt, đi xa có tài lộc và an hưởng còn nữ làm ăn trắc trở. Sao Thái Dương chiếu vào tháng 6 và tháng 10 hay có tài lộc. Để giải trừ cái hung, thu về phần cát, mỗi tháng vào tối ngày mùng 2 cúng 12 ngọn đèn, 12 chén nước và 3 nén hương. Bài vị dùng giấy màu vàng viết: "Nhật cung Thái Dương Thiên Tử tinh quân" và hướng về hướng Đông hành lễ.
Sao Thái Bạch: Đây là sao mang cả cát lẫn hung. Nam hay buồn rầu nhưng làm ăn khá vì có quý nhân phù trợ. Trái lại, nữ hay đau ốm, vợ chồng tranh cạnh nhau. Để giải hạn mỗi tháng vào tối ngày 15, cúng 8 ngọn đèn cùng 8 chén nước và 3 nén hương, dùng giấy trắng viết bài vị: "Tây phương Canh Tân Kim Đức tinh quân" và hướng về phía Tây hành lễ.
Sao Mộc Đức: Đây là sao tốt, người gặp sao này chiếu thì thuận lợi việc cưới gả cũng như cầu tài. Tuy nhiên, nam hay bị đau mắt còn nữ đau ốm về máu huyết. Sao Mộc Đức chiếu mệnh vào tháng Chạp sẽ phát tài. Để trừ bớt điều xấu, mỗi tháng vào tối ngày 25 cúng 20 ngọn đèn, 20 chén nước và 3 nén hương. Bài vị dùng giấy màu xanh, viết: "Đông phương Giáp Ất Mộc Đức tinh quân" và quay về hướng Đông hành lễ.
Sao Vân Hớn: Là một sao hung, nam phải phòng việc thị phi, quan sự nên nói năn cần lựa lời. Nữ hay bị đau về máu huyết nên kỵ việc sinh nở. Sao Vân Hớn chiếu hạn nặng nhất vào tháng 2 và tháng 8. Để hóa giải, mỗi tháng vào tối ngày 29 cúng 15 ngọn đèn, 15 chén nước, 3 nén hương. Bài vị dùng giấy đỏ viết: "Nam phương Bính Đinh Hỏa Đức tinh quân" và quay về phương Nam hành lễ.
Sao La Hầu: Đây là sao hung tinh, nam ngừa quân sự, nhiều việc ưu sầu còn nữ hay có việc buồn rầu, đau mắt, sinh sản có bệnh. Sao La Hầu phát mạnh vào tháng Giêng và tháng 7, kỵ nam nhiều hơn nữ. Để giải hạn, mỗi tháng ngày mùng 8 cúng 9 ngọn đèn, 9 chén nước, 3 nén hương, dùng giấy vàng viết bài vị: "Thiên cung Thần Thủ La Hầu tinh quân" và hướng về phương Bắc hành lễ.
Sao Thủy Diệu: Là sao mang cả cát lẫn hung. Nam có sao nỳ chiếu thì đi làm ăn khá, đi xa có tài lộc nhưng những hay tai nạn, nhất là sông nước. Sao kỵ nhất vào tháng 4 và tháng 8. Để hóa giải, mỗi tháng vào tối ngày 21 cúng 7 ngọn đèn, 7 chén nước, 3 nén hương, dùng giấy vàng viết bài vị: "Bắc phương Nhâm Quý Thủy Đức tinh quân" và hướng về phương Bắc hành lễ.
Sao Kế Đô: Là sao hung tinh, nam làm ăn bình thường, đi xa có tài lợi còn nữ hay xảy ra việc rầy rà, điều tiếng thị phi. Sao Kế Đô chiếu hạn nặng nhất vào tháng 3 và tháng 9. Để hóa giải sao này, vào tối mùng 1 hàng tháng cúng 20 ngọn đèn, 20 chén nước và 3 nén hương. Bài vị dùng giấy vàng viết: "Địa cung Thần Vĩ Kế Đô tinh quân" và quay về hướng Tây hành lễ.