Chì kẻ mắt có màu sắc, kiểu dáng và kích cỡ phong phú, là một "vũ khí" đắc lực trong quy trình trang điểm của phụ nữ. Thế nhưng ít ai biết được rằng chì kẻ mắt lại có lịch sử vô cùng lâu đời.
Vào năm 1070 Trước Công Nguyên, người Ai Cập cổ đại đã biết sử dụng kohl để trang trí viền mắt. Kohl là hợp chất được làm từ đá lông công, đồng galena, mangan sắt và chì. Ngoài ra, người ta cũng đã dùng bồ hóng và nút chai cháy để vẽ mắt. Kohl thường ở thể rắn, và khi sử dụng thì người cổ đại sẽ trộn kohl với dầu hoặc mỡ, sau đó dùng một cái que được mài giũa phù hợp để vẽ lên mắt.
Trong vòng 100 năm tiếp theo, chì kẻ mắt không có nhiều thay đổi. Phụ nữ vào thời Thập tự chinh như Marie Antoinette và Nữ hoàng Elizabeth I không dùng chì kẻ mắt vì lúc bấy giờ phong cách trang điểm phổ biến tập trung vào lớp phấn nền nhiều hơn. Người ta chủ yếu sử dụng mascara để trang điểm cho mắt. Đến thập niên 20 của thế kỷ XX, khi chì kẻ mắt bắt đầu nổi tiếng nhờ vào sân khấu kịch và phim câm.
Nữ diễn viên phim câm nổi tiếng Theda Bara là một trong những người dẫn đầu phong cách kẻ mắt đậm với chì kohl của Helena Rubinstein. Tại thời điểm đó, phụ nữ phương Đông thì thường kẻ viền trong mắt hoặc tán chì ra thành phấn mắt, còn phụ nữ phương Tây thì kẻ viền ngoài mắt, ở cả mí trên và mí dưới.
Năm 1929, hãng Maybelline ra mắt và tiếp thị sản phẩm kẻ mắt đầu tiên cùng với phấn mắt và cây “nhuộm lông mi” - tên gọi ban đầu của mascara. Maybelline đã đặt cả ba sản phẩm trong một bộ kit, và người sử dụng phải mua cả ba để có một lớp trang điểm mắt hoàn hảo.
Vào những năm 1950, chì kẻ mắt trở thành sản phẩm trang điểm cần thiết dành cho phụ nữ. Cũng chính vào lúc này, kẻ mắt nước ra đời. Các thập niên sau đó người ta cũng lần lượt nghiên cứu các công thức chì kẻ mắt màu đa dạng.
Cho tới thời điểm hiện tại, phụ nữ có rất nhiều lựa chọn để kẻ mắt như kẻ mắt nước, kẻ mắt dạng gel, dạng sáp mềm mại… Hình dáng và kích cỡ của đầu cọ, đầu chì cũng được thiết kế sao cho tiện dụng nhất.
Bình luận