Liên quan đến vấn đề này, tại khoản 1 điều 33 Luật Hôn nhân và Gia đình 2014 đã quy định: Tài sản chung của vợ chồng là tài sản mà vợ chồng được thừa kế chung hoặc được tặng cho chung và tài sản khác mà vợ chồng thỏa thuận là tài sản chung. Và tài sản chung của 2 vợ chồng sẽ bao gồm tài sản do vợ, chồng tạo ra, hoặc thu nhập do lao động, hoạt động sản xuất, kinh doanh, hoa lợi, lợi tức phát sinh từ tài sản riêng và những khoản thu nhập hợp pháp khác trong thời kỳ hôn nhân, trừ trường hợp đã được quy định tại khoản 1 điều 40 của luật này.
>>> Xem thêm: Từ 13/5, miền Bắc xuống dưới 16 độ, "mùa hè lạnh" sau 40 năm
Như vậy theo quy định nêu trên, số tiền, vàng mà các cặp vợ chồng có được sau khi đăng ký kết hôn là tài sản chung của vợ chồng bạn.
Bởi theo quy định, việc mọi người tặng, mừng tiền, vàng cho vợ chồng nhân dịp đám cưới chính là một dạng của hợp đồng tặng cho tài sản theo quy định của điều 457 Bộ Luật Dân sự 2015. Cụ thể, hợp đồng tặng cho tài sản là sự thỏa thuận giữa các bên. Trong đó bên tặng cho giao tài sản của mình và chuyển quyền sở hữu cho bên được tặng cho mà không yêu cầu đền bù, và bên được tặng cho đồng ý nhận. Như vậy nghĩa là với những hành vi tặng cho tài sản thì sau khi đã tặng, kể từ thời điểm giao tài sản cho người được tặng, người tặng không còn quyền sở hữu đối với tài sản đó.
Đồng nghĩa với việc tiền, vàng vợ chồng được mọi người tặng, mừng nhân ngày cưới không còn thuộc quyền sở hữu của người tặng mừng nữa. Chính vì vậy người đã cho tăng không có quyền yêu cầu vợ chồng phải trả lại. Nói cách khác, các cặp vợ chồng không có nghĩa vụ trả lại tiền, vàng mà mẹ chồng đã tặng lúc cưới.
Ngoài ra, hình thức tặng tiền, vàng vào ngày cưới không phải là tặng cho có điều kiện nên khi ly hôn không có nghĩa vụ hoàn trả và tài sản này được xem là tài sản chung nên khi ly hôn chỉ có thể xem xét chia đôi cho vợ và chồng mà thôi.
Bình luận