VnExpress đưa tin, trong Hướng dẫn chẩn đoán và điều trị Covid-19 ở trẻ của Bộ Y tế ban hành ngày 8/11 đã khẳng định 55% trẻ em mắc Covid-19 thường không triệu chứng hoặc nhẹ. Theo đó, triệu chứng viêm hô hấp trên hay tiêu hóa ở mức trung bình là 40), nặng 4%, và nguy kịch là 0,5%. Trong đó, đối tượng trẻ nhũ nhi dưới 12 tháng khi mắc nCoV có nguy cơ cao diễn tiến nặng.
Chính vì trẻ mắc Covid-19 thường ở thể nhẹ, do đó tỷ lệ nhập viện và tử vong ở đối tượng này ít so với người lớn. Riêng hội chứng viêm hệ thống đa cơ quan (MIC-S) ở trẻ mắc Covid-19 thường rất hiếm gặp, trong đó nếu có sẽ xảy ra chủ yếu 2-6 tuần sau nhiễm, diễn tiến nặng có thể khiến trẻ tử vong.
>>> Xem thêm: Khán giả phải trình CCCD gắn chip khi vào sân Mỹ Đình xem trận Việt Nam - Nhật Bản
Bộ Y tế cũng cho biết, triệu chứng lâm sàng ở trẻ mắc Covid-19 bao gồm: Thời gian ủ bệnh từ 2-14 ngày, trung bình là 4-5 ngày.
Ở giai đoạn khởi phát, thường người mắc nCoV sẽ có các dấu hiệu như: sốt, mệt mỏi, đau đầu, ho khan, đau họng, nghẹt mũi/sổ mũi, mất vị giác/khứu giác, nôn và tiêu chảy, đau cơ, nhưng ở trẻ khi mắc nCoV thường không có triệu chứng này xảy ra.
Các triệu chứng khác ít gặp hơn ở người mắc nCoV bao gồm tổn thương da niêm; rối loạn nhịp tim; tổn thương thận cấp; viêm thanh mạc; gan to, viêm gan; bệnh não có thể là co giật, hôn mê hoặc viêm não.
Trong giai đoạn tiến triển, trẻ mắc nCoV đa phần chỉ bị viêm đường hô hấp trên với các dấu hiệu như sốt nhẹ, đau họng, ho, mệt mỏi, sổ mũi; hay viêm phổi và thường sau 1-2 tuần sẽ tự hồi phục. Chỉ khoảng 2% trẻ diễn tiến nặng, trong đó chủ yếu ở ngày thứ 5-8 của bệnh. Và khoảng 0,7% trẻ mắc nCoV mắc các biến chứng nặng như: hội chứng nguy kịch hô hấp cấp (ARDS), viêm cơ tim, nhiễm khuẩn huyết, sốc nhiễm trùng, và hội chứng viêm đa hệ thống và cần điều trị hồi sức tích cực.
Đối với những trẻ béo phì, bại não, trẻ chậm phát triển, mắc bệnh phổi mạn, suy giảm miễn dịch, đái tháo đường, tim bẩm sinh... là những yếu tố tiên lượng nặng. Trong đó dưới 0,1% trẻ tử vong vì mắc nCoV và hầu hết để tử vong do bệnh nền.
Thời kỳ hồi phục ở trẻ thường từ ngày thứ 7 đến 10, nếu không có các biến chứng nặng, trẻ sẽ dần hết các triệu chứng lâm sàng và sau đó sẽ khỏi bệnh.
>>> Xem thêm: Phó Thủ tướng yêu cầu tiêm phủ mũi 1 ở miền Nam trong 5 ngày
- Thể nhẹ: Trẻ mắc nCoV không có triệu chứng lâm sàng hoặc triệu chứng không điển hình... Trẻ không có biểu hiện của thiếu oxy, SpO2 trên 96% khi thở khí trời và nhịp thở của trẻ bình thường. Trẻ vẫn tỉnh táo, sinh hoạt ăn uống bình thường. Chụp X-quang phổi của trẻ bình thường. Nhưng nếu trẻ có bệnh nền như bệnh phổi mãn, béo phì, suy thận mạn, gan mật, dùng corticoid kéo dài, suy giảm miễn dịch, tim bẩm sinh... các bác sĩ khuyến cáo cần theo dõi sát vì dễ diễn biến nặng.
Trẻ ở thể nhẹ sẽ được điều trị tại nhà hoặc nơi cách ly.
- Mức độ trung bình: Trẻ có triệu chứng viêm phổi nhưng nhẹ và vẫn tỉnh táo, chỉ mệt và ăn uống ít hơn bình thường. Chụp X-quang phổi của trẻ sẽ thấy có tổn thương dạng mô kẽ, kính mờ, thường ở 2 đáy phổi.
Nhóm trẻ này cần đến viện, và có thể dùng các biện pháp hỗ trợ hô hấp như oxy gọng kính, hay dùng thuốc kháng sinh, remdesivir... theo phác đồ điều trị của bác sĩ.
Mức độ nặng: Trẻ bị chứng viêm phổi nặng nhưng không nguy hiểm đe dọa tính mạng. Trẻ thở nhanh và bị rút ngực hoặc thở rên, phập phồng cánh mũi, quấy khóc, khó chịu, khó ăn uống. SpO2 từ 90 đến dưới 94%. Chụp X-quang phổi của trẻ có tổn thương dạng mô kẽ, kính mờ lan tỏa trên 50% phổi.
Mức độ nguy kịch: Trẻ suy hô hấp nặng SpO2 dưới 90%, cần đặt nội khí quản. Các biểu hiện nguy hiểm đe dọa tính mạng trẻ như thở bất thường, rối loạn nhịp thở, tím tái, ý thức giảm khó đánh thức hoặc hôn mê, bỏ hoặc không ăn uống được. Trẻ thể nguy kịch khi mắc nCoV có thể mắc hội chứng suy hô hấp tiến triển, sốc nhiễm trùng, suy đa tạng, tụt huyết áp, hội chứng viêm hệ thống, cơn bão cytokin.
Trẻ nặng và nguy kịch cần điều trị tại ICU, cần dùng thuốc, và phải có sự hỗ trợ hô hấp theo chỉ định bác sĩ.
Theo Bộ Y tế hiện nay biện pháp phòng bệnh giúp giảm tỷ lệ mắc và tử vong vì Covid-19 ở trẻ, đó là tuân thủ 5K, kết hợp với tiêm vaccine, đồng thời cần phát hiện sớm và phân tầng điều trị bệnh nhân phù hợp với mức độ nặng của bệnh để tránh tình trạng xấu xảy ra.
Bình luận